Những Đứa Trẻ Thái Bình 6: Thằng Luyến

– 112 –

Luyến và Ngọc đứng trên cầu Bo, nhìn nước lũ xuống dần, và chẩy chậm lại. Nước lũ không còn hung hăng như mấy hôm trước. Mới vỡ đê năm 1945; muốn vỡ đê, phải đợi vài chục năm nữa. Người ta vẫn sợ nước lũ, tuy nước lũ mang về cho nông dân bao nhiêu nguồn trù phú. ruộng đồng đầy mầu mỡ. Ao ngòi vô số cá tôm.

Nước lũ đe dọa nỗi vỡ đê. Mà, vỡ đê là niềm lo sợ truyền kiếp của dân mình. Nhãn năm nay mất mùa. Đê không thể vỡ được. Nhãn được mùa, người ta hồi hộp đến tận rằm tháng bảy âm lịch. Nếu rằm tháng bảy, nước lũ không lên, người ta mới thở ra, sung sướng. Hết lụt lội, người ta ngại bão táp. Vụ tháng mười, nhiều đường vất vả lám. Chờ tháng chín tới, bão táp không làm lúa gẫy cổ, gục xuống, người ta mới biết chắc được mùa. Để chuẩn bị ăn tết.

Nhà quê nó liên hệ gắn bó với thành phố. Nhà quê hạnh phúc, thành phố hạnh phúc. Nhà quê bất hạnh, thành phố bất hạnh luôn. Ở thị xã, ngoài cái liên hệ thương mại, học đường gắn bó lấy nông thôn, còn mật thiết về gia đình, họ hàng, người cùng quê hương yêu dấu. Cho nên, bất kể chuyện gì xẩy ra ở nông thôn mình, thị xã cũng bồi hồi tấc dạ. Luyến và Ngọc xem nước lũ xuống dần, đâu phải cho riêng hai đứa chẳng có miếng đất nào ở thôn quê. Chúng nó biết vì người Thái Bình, tất cả.

– Về thôi, Ngọc!

Luyến ngó đồng hồ.

– Mấy giờ rồi, anh?

– 5 giờ.

– Tháng chín dương lịch mà vẫn còn oi bức. Mùa thu đấy, giữa thu chứ! Các ông thi sĩ toàn bịa cả.

Luyến mỉm cười:

– Em đã lớn lên vì thơ rồi chăng?

Ngọc vuốt tóc đang bay theo gió:

– Có lẽ, anh ạ!

Luyến tán tỉnh:

– Cho anh nghe một bài đi!

Ngọc hơi xấu hổ:

– Một bài mùa thu thi sĩ bịa nhé?

Luyến không trả lời. Hai đứa cùng ngó xuống sông. Nước chẩy rầm rĩ dưới gầm cầu. Ngọc khe khẽ đọc.

– Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng

Đây mùa thu tới mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng

Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rủa mầu xanh

Những buồn run rẩy rung rinh lá

Đôi nhánh khô gầy sương mỏng manh

Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ

Đã nghe rét mướt luồn trong gió

Đã vắng người sang những chuyến đò

Mây vẩn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia ly

ít nhiều thiếu nữ buồn không nói

Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì

Nước vẫn chẩy rầm rĩ dưới gầm cầu. Nước quyện lấy thơ. Nước im lặng như thôi chẩy. Thơ tắm trong nước. Nước và thơ chỉ còn là hơi thở man mác.

– Hay quá, buồn thu.

– Anh thấy ông Xuân Diệu bịa mùa thu chưa? Nóng nung người, ông lại tả Đã nghe rét mướt luồn trong gió.

– Em đang đứng trên cầy Bo, thị xã Thái Bình, trách móc thi sĩ Xuân Diệu. Mình biết Xuân Diệu làm Đây mùa thu tới ở chỗ nào? Hà Nội hay Ba Vì, Hải Phòng hay Bắc Cạn. Thôi, cứ đọc thơ ngưòi ta là đủ. Cần gì thơ bịa hay không bịa. Bịa là không bịa. Không bịa là bịa. Thi sĩ mà, em.

– Anh thích không?

– Xuân Diệu bài nào anh cũng thích. Em biết hát không nào?

– Biết.

– Em hát Thu bên sông đi!

– Không biết bài này. Của ai thế, anh?

– Việt Lang.

– Thời Xuân Diệu, hả?

– Thời kháng chiến. Việt Lang lạ lắm. Anh ta đã làm Đoàn quân đi, Mùa không biên giới, sau anh ta chán nản làm Thu trên sông. Anh hát chả ra cái gì cả, cứ hát cho em nghe, nhé!

– Anh hát đi, anh!

Ngọc im lặng. Tiếng hát của Luyến bay lên trời:

– Nắng phai dần đồi nương áng mây
gợi nhớ

Thu tịch liêu bóng chiều về

tương tư gió

Ngồi đây nâng phím đàn

xao xuyến đường tơ

Đã bao mùa thu chín trái mong chờ

Ru đời thu mộng du ướt át

tình thu vàng mơ bát ngát

Đất trời say thu đó chăng

Ru đời ta quặn đau chất ngất
tình ta nằm sâu đáy đất

Chớm thu hồn đã phai tàn

Buồn trăng nước

gió lùa bên song lá vàng bay tung

sầu mênh mông đàn khóc trong đêm

lửa thiêng nghiêng bóng

Gọi người nhớ ai

Thu năm xưa muốn còn tìm tới

Em xa anh đôi miền đất xa trời

Thu cô liêu và tôi cô liêu

Thu úa héo tôi là tiếng thông reo

Mùa thu chết sắp qua

xót xa nỗi mình bão táp mưa sa

Đi là mang sầu thương bến nước

về muôn trùng dương nỗi ước trường giang

Nhạc đã tắt. Âm thanh còn rung động sông nước.

– Nhạc Việt Lang tuyệt vời.

– Có ngôi thứ trong kháng chiến đấy.

– Mai anh dạy em, nhé!

– Sẽ dạy em tất cả nhạc kháng chiến lãng mạn. Từ Nhớ thành Tô của Tô Vũ, đến Ba Vì của Huy Du. Anh sẽ học chơi đàn Y pha nho đệm cho em hát.

– Anh thấy chưa? Người ta phải tổ chức đêm thơ, đêm nhạc, hát ngâm cho nhiều người nghe. Thị xã có cầu Bo để em và anh hát và đọc thơ cho chúng mình nghe. Thơ mộng chưa, Luyến nghịch ngợm!

– Hết được nghịch ngợm rồi.

– Luyến đầu óc nhé!

– Không, Luyến cụt chân!

Hai đứa phá ra cười.

– Mấy giờ rồi, anh?

Luyến vén ống tay áo:

– 5 giờ 30. Mình về thôi, em!

Hai đứa về, vừa đi vừa trêu nhau. Đến đầu cầu, bắt đầu từ con dốc, Ngọc chạy lên đi trước. Con bé đi giật lùi. Để Luyến có vấp ngã, Ngọc kịp nâng lên. Hạnh phúc đang đến với hai đứa. Niềm vui bảng lảng khắp nơi. Chợt, môt chiếc xe cam nhông từ cầu Bo, chạy xuống phía hai người. Rồi, hai, ba, bốn, năm chiếc theo sau. Pháp chở tù binh cách mạng bị bắt trong cuộc hành quân Trái Chanh. Xe để trần, vì trời nóng. Mỗi chiếc chở chừng 30 tù binh, tay bị trói cánh khuỷu. Người nào người ấy, há hốc miệng, thè lưỡi ra, khát lắm. Chắc họ bị bắt từ sáng sớm, chưa được ăn uống gì. Họ ngồi tập trung một chỗ, phơi nắng suốt ngày. Ngồi trên xe căm nhông chật chội như nhét vào hộp, bị nắng thiêu đốt, thèm uống nước đến chết. Tù binh cách mạng toàn mặc quần đùi, áo cánh nâu, nhiều người không mặc áo, ở trần. Trông tận mắt, thấy cảnh tượng con người đối với con người ghê tởm quá, Luyến nổi giận:

– Em về nhanh trước đi, Ngọc.

– Không, em đứng bên anh.

– Làm gì?

– Để đưa anh về. Mắt anh ngầu đỏ, đang long lanh cơn phẫn nộ.

Năm chiếc xe tù binh và ba xe jeep lắp đại liên hộ tống, không vào khu quân đội Pháp đồn trú. Mà chạy quẹo tới bệnh viện. Từ hôm, bắt đầu cuộc hành quân Trái Chanh, Luyến chưa hề thấy Pháp bắt tù binh. Hôm nay, Luyến mới chứng kiến tận mắt, và tin rằng Pháp đã bắt nhiều cách mạng, giam hết chỗ, đành đem ra chỗ bắn đại bác, đối diện bệnh viện, tạm nhốt vài hôm.

– Tù binh không còn là con người nữa, em ạ!

– Họ bị khát ghê quá.

– Bị khát thè lưỡi như chó, khiến con người mất hết phẩm cách làm người. Đã đói chưa đủ, khát chưa đủ, còn trói con người, đầy ải cho nắng thiêu con người. Những bài học L’Amour de l’humanité người Pháp dạy anh, ngày xưa, đáng xé đi là vừa. Anh đến bệnh viện đây.

– Cho em theo.

Luyến ngạc nhiên. Khu pháo binh đặt đại bác câu đi đã di chuyển. Hàng rào ba lớp dây thép gai mới làm xong. Tù binh bị dồn vào. Chung quanh, lính da đen canh gác. Mấy khẩu tiểu liên sẵn sàng khạc đạn. Người ta cấm không cho dân thị xã đến gần. Luyến và Ngọc phải đứng ở thềm nhà, đằng xa. Tù binh đã xuống xe. Họ ngồi một chỗ. Không có nhà, có lều ở nơi đây. Đêm nay, họ sẽ sống ngoài trời. Sáu giờ chiều, dân thị xã biết gần hết. Dân mang nước, bánh đến cho tù binh. Lính da đen đuổi đi hết. Tù binh vẫn há hốc miệng, thè lưỡi như chó khát.

Bên cạnh tù binh ngồi, cách một con đê cao, là sông Trà Lý. Con sông nước ngầu dỏ đang chảy ra biển. Tù binh chỉ được uống nước sông ngát phù sa đã tỉnh và, dần dần, biết mình còn làm người. Sự thèm khát khiến con người còn một chút ước mơ, cũng không bao giờ ước mơ tới.

Bây giờ, con người khát lè lưỡi ra, dẫu được uống nưóc ao tù, nước cống hay nước tiểu cũng say sưa. Cái say sưa của người hết làm người. Tù binh không được uống một thứ nước gì! Lính da đen canh gác, thỉnh thoảng, uống hộp nước ngọt, một cách bình thường. 6 giờ 30, một xe jeep tới, mang lệnh của Hành dinh Pháp, cởi trói cho tù binh.

Luyến cố nhớ lại ngày Nhật đảo chính Pháp ở thị xã Thái Bình. Nhật hành hạ Pháp, bắt Pháp kéo xe bò chở đá, lột giầy chân không, cho khát rã họng, thè lưỡi như chó. Pháp không thể trả thù Nhật. Phát căm giận phát xít Đức, Nhật. Đành trả thù dân Thái Bình, những người đã lén Nhật, đem nước cho Pháp uống ở bên kia cầu Bo.

– Pháp cởi trói cho mình kìa.

– Vẫn bắt khát.

– Bắt người ta khát làm gì nhỉ?

– Cho hết theo cách mạng chống Pháp.

7 giờ. Trời đang nóng nực, bỗng trở nên oi nồng. Tiếng sấm đã nổi dậy. Gió bắt đầu thổi. Muốn mưa hay sao ấy. Tự nhiện, Luyến biến thành trẻ con. Nó cầu mưa. Lạy trời mưa xuống, lấy nước tù binh uống.

– Cầu mưa đi, em.

– Vâng, em đang thầm cầu.

– Cầu to để trời nghe thấy. Chỉ có trời mới làm con người hết khát, lúc này.

– Anh tin trời à?

– Tin.

Gió thổi mạnh. Sấm vang lừng. Chớp chiếu những tia an ủi. Một lát, trời mưa. Luyến nhìn về chỗ nhốt tù binh căng mắt. Mưa ầm ầm đổ. Nước xối xả rơi. Tù binh được cởi trói, nằm ngửa cả ra, há mồm rộng hứng nước mưa từ trên trời đổ xuống. Nơi tạm nhốt tù binh là khu đất phẳng phiu, không có lỗ chứa nước được, tù binh chẳng nằm sấp uống mà đành nằm ngửa. Nằm ngửa, nước không đủ đánh tan cơn khát, tù binh phải cởi áo hứng nưóc mưa. Tù binh nào mình trần, cởi luôn quần đùi hứng nước. Lính da đen dã mặc áo đi mưa, canh phòng kỹ hơn. Tù binh hứng ướt áo quần bèn vắt nước vào miệng. Cơn khát xuống dần. Trời vẫn mưa to không ngớt. Những ông nhà văn viết L’Amour de l’humanité, có thể, xem cảnh bắt khát của lính Pháp, viết lại tình yêu nhân đạo.

Luyến bị lính Pháp bắn gẫy chân, chở vể bệnh viện săn sóc và an ủi khi Luyến lành bệnh . Luyến đã mang ơn Pháp. Bây giờ, Luyến lại ghét Pháp. Thì ra, Luyến đã quên cái thiện cho riêng mình, chỉ nhớ cái ác cho đồng bào Luyến. Thời chiến chinh, cái thiện đến rất ít, cái ác đến rất nhiều. Cái thiện làm theo cảm hứng, cái ác làm theo mệnh lệnh. Người ta không lường nổi.

– Đi về, em!

– Trời đang mưa lớn.

– Anh muốn lê nạng gỗ dưới mưa.

– Để làm gì?

– Làm người Việt Nam bần tiện, thấy đồng bào mình thống khổ, vẫn thản nhiên quay đi.

Ngọc chiều ý Luyến. Hai đứa bước trong mưa tầm tã. Quần áo bó lấy thể xác. Ướt như chuột. Tiếng gầm của sấm sét làm át tiếng nạng khua.

—>xem tiếp

Leave a comment